Câu đối Tết con Hổ

@ 1 January 2010 11:07 PM
Hà Sĩ Phu

I. Kiếp HỔ - vinh và nhục

Hổ{nl}vốn ở tận rừng sâu nhưng mối liên quan đến con người thì ít dã thú nào{nl}bì kịp. Vì Hổ đồng nghĩa với sức mạnh, với bạo lực, bạo quyền. Ở nơi{nl}rừng rậm thì bạo quyền làm nên chức tước. Sư tử nguyên là Chúa Sơn lâm,{nl}nhưng nòi giống “hào kiệt” này đã dần “hao kiệt”, Hổ là cấp phó tự đề{nl}bạt mình lên cấp trưởng đương nhiên. Con người hồng hoang xưa vốn là{nl}“Con” nên cũng khát khao những thứ bạo lực và “vinh quang” ấy lắm.

Chúa{nl}Sơn lâm rất kỵ văn minh chẳng thích gần người, nhưng con người cứ sùng{nl}kính đưa Hổ vào đời sống của mình, tôn là Ông Hổ hay Ông Ba mươi (Mối{nl}hữu nghị này xem ra cũng là hữu nghị một chiều). Khát khao sinh ra sợ{nl}sệt và sùng bái. Sáng dậy, thấy quanh nhà có vết chân “lạ” của Hổ thì{nl}xì xào “Ðêm qua Ông về, Ngài về!” (mặc dù “Ngài” về để bắt lợn!). Tên{nl}của Hổ chỉ dùng vào việc tôn kính, tướng võ oai phong gọi là Hổ tướng,{nl}cha con cùng tài giỏi là “Hổ phụ sinh Hổ tử”....

Nhưng ở đời,{nl}cao nhân tất hữu cao nhân trị (huống chi “cao Hổ”). Con người dần văn{nl}minh lên, có vũ khí, có mưu mẹo để săn bắt Hổ thì danh tiếng xưa kia{nl}lại trở thành đại họa cho Chúa Sơn lâm. Bộ da Hổ rất đẹp rất oai thì{nl}phải lột da làm thảm trải nơi trướng gấm. Xương Hổ tạo nên sự khỏe mạnh{nl}thì phải nấu thành cao. Răng Hổ thì phải vặn ra, đem mài từng chút làm{nl}thuốc chữa đau bụng. Vuốt hổ bị bóc ra thành vật trang sức trước ngực{nl}những chàng trai muốn bộc lộ tính dũng mãnh của mình. Kể sao hết nỗi{nl}tang thương !. Sức mạnh hoang dã là thứ tốt nhất để con người lợi dụng.

Thân{nl}đã bại thì danh cũng liệt. Hổ chẳng còn uy vũ thiêng liêng gì, “Chúa”{nl}nay bị nhốt vào chuồng làm cảnh để thu tiền du khách. Xác Hổ thì bỏ hết{nl}ruột gan, nhồi bông bày nơi khảo cổ, cho loài người chiêm ngưỡng như{nl}chiêm ngưỡng một trong những loài “tiền bối” của mình. Cái gì xấu thì{nl}dành cho Hổ, người ta chửi rủa nhau “Ăn như Hổ đói”, “Ðồ Hổ vồ”. Hổ{nl}thành biểu tượng cho sức mạnh tàn ác, luật rừng dã man. Ngôn ngữ Việt{nl}nam càng làm mất danh dự cho loài Hổ, nào là Hổ thẹn, đứt thần kinh Xấu{nl}Hổ. Trong văn chương, viết “Hổ không biết Hổ” là mượn tên loài Hổ chửi{nl}bọn người tham tàn vô sỉ. Nếu hiểu tiếng Việt và có thần kinh xấu hổ{nl}thì chắc Hổ phải tủi hổ, chui xuống lỗ nẻ mà chết. Nhưng cũng may cho{nl}Hổ, không chết, vì bạo lực và sự hổ thẹn nào có mấy khi song hành !

Nhưng{nl}nỗi bất hạnh nhất của Hổ phải kể dến trò đấu Hổ quyền. Cho Hổ đấu với{nl}voi, nhưng “Voi được đi lại tự do, còn hổ bị buộc bằng sợi xích cột vào{nl}cái cọc đóng chắc chắn ở giữa đấu trường và bị cắt bỏ nanh vuốt, cốt{nl}biến Hổ thành vật tế thần cho voi tập luyện ” (!). (Ðây là kiểu “Trói{nl}tay đối thủ rồi thách đấu” – Bùi Tín).

Theo bài “Hổ Quyền” trong{nl}cuốn Quần thể di tích Huế (NXB Trẻ 2007, trang 293-299), tác giả Phan{nl}Thuận An tả cảnh một trận Hổ quyền dưới triều Thành Thái như sau:

Voi{nl}cái bước vào đấu trường có vẻ hiên ngang, đi qua đi lại trước mặt cọp{nl}không một chút sợ hãi, vua Thành Thái khen: "con này can đảm lắm".{nl}Nhưng bỗng chốc, cọp nhảy lên trán voi, voi hất mạnh, cọp rơi xuống.{nl}Cọp lại nhảy lên bấu vào chỗ cũ. Voi tức giận, rống lên, vụt chạy đến{nl}dùng đầu đẩy mạnh cọp vào thành đấu trường, dùng sức mạnh ngàn cân vừa{nl}húc, vừa ép thật sát. Khi voi ngẩng đầu lên, cọp té xuống đất, voi dùng{nl}chân chà cọp đến chết...

Trận Hổ quyền đẫm máu nhất là vào năm{nl}1750, ở cồn Dã Viên trên sông Hương, lần lượt 40 con voi đã giết chết{nl}18 con Hổ một cách khủng khiếp tương tự như thế.

Âu cũng là{nl}“sinh ư nghệ tử ư nghệ”, không cậy mình có sức mạnh vô địch làm Chúa{nl}Sơn lâm, mặc sức chén thịt hươu nai, trâu bò thì Hổ đâu có vinh dự chọn{nl}làm vật tế thần và bị đẩy vào cảnh thê lương như vậy? Thật rõ oan oan{nl}tương báo.

Ba mươi Tết CANH DẦN này, theo phong tục, TRÂU phải{nl}bàn giao quyền cho HỔ, HỔ tiếp quản quyền bính chi phối thế gian. Lòng{nl}ta không khỏi bồi hồi. nghĩ về con HỔ, để vừa ca ngợi, vừa sợ, vừa{nl}ghét, vừa thương. Trời sinh cái kiếp CỌP sao đa đoan, lúc vinh là thế{nl}mà lúc nhục là thế !

HỔ lên ngôi thì TRÂU phải tán loạn mà chạy{nl}mất dép (mất guốc chứ!). HỔ và BÁO liệu có là cặp bài trùng? HỔ lên{nl}ngôi thì họ nhà BÁO ra sao? Tôi cứ nghĩ lan man vậy mà nên mấy Câu đối{nl}Tết nôm na này, để cùng bạn bè dăm ba phút vui vui trong ngày Tết.


II. Câu đối Tết con HỔ

Câu đối 1: (Cuộc Ðổi mới của Trâu và Hổ)

* TRÂU men Lề phải vô chuồng cũ!
* HỔ cứ Luật rừng giữ thói xưa!


Câu đối 2: (Quan hệ Trâu và Cọp)

* TRÂU theo lề phải... vô chuồng CỌP !
* CỌP cứ luật rừng... chén thịt TRÂU!


Câu đối 3: (Về 2 chữ CANH-DẦN)

*CANH CÁNH những lo niềm nước mất!
* DẦN DẦN phải gỡ nỗi dân đau!


Câu đối 4: (Chơi chữ Hổ-Báo-Hùm-Beo)

* Rỡn mặt Hổ, mình ra tờ nhật Báo!
* Vuốt râu Hùm, ta tạo tấm da Beo!


(Tấm da Beo lốm đốm như Ác với Thiện, như Phải và Trái xen nhau)

Câu đối 5: ( Quan hệ tay tư giữa Trâu-Hổ-Cuội-Bờm)

* BỜM cưỡi lưng TRÂU, sừng vênh vểnh ra chiều tự đắc!
* CUỘI mang tính HỔ, vuốt thập thò coi bộ hiền khô!


Câu đối 6: (Vịnh nước cờ BỐN TỐT sang sông)

* Ðêm ba mươi, pháo nổ ngang trời, ông ba mươi tiếp quản, dân thấp thỏm,TRÂU chạy đằng TRÂU!
* Mẹo bốn tốt, cờ tàn hết nước, địch bốn tốt sang sông, tướng khốn cùng, HỔ không biết HỔ?


( Dân gian còn gọi Hổ là “ông Ba mươi”.

Dân chơi Cờ tướng có câu: “Cờ tàn đấm tốt” và “Tốt nhập cung, tướng khốn cùng”)

III: Mời đối Tết Canh Dần

Mời đối 1:

* Ðêm đến tàn CANH, DẦN sẽ sáng !?

Mời đối 2: (Tặng những nhà BÁO còn đau đáu một niềm HỔ thẹn)

* HỔ-BÁO tương phùng, năm của HỔ hãy là năm của BÁO!

Mời đối 3:

* NHÂN quyền đâu phải HỔ quyền,
trói đối thủ, lại giữ quyền thách đấu?


( Hổ quyền có 4 nghĩa khác nhau: 虎圈 Chuồng nuôi hổ, 虎圈 cuộc đấu voi-hổ,

虎拳 thế võ bắt chước hổ, 虎權 quyền của hổ. Về cuộc đấu Hổ quyền xin xem bài viết bên trên)

Cung Chúc Tân Xuân
Hà Sĩ Phu{nl}
{nl}{nl}