Ðầu thế kỷ trước, Phan Bội Châuđang ở Ðông Kinh viết thư cho Phan Châu Trinh ở Quảng Nam trong nước để khuyên không nên đề xướng các họcthuyết tự do dân chủ, “Dân chi bất tồn, chủ ư hà hữu?” Phan Bội Châu cho rằng người dân Việt Nam chưa đủkhả năng sống theo lối tự do dân chủ. Cụ ví “quốc dân ta còn đang măng sữa” như đứa trẻ con răng chưa chắcmà cho ăn xương thì sẽ bị hóc, chân chưa vững mạnh mà bắt chạy thì sẽ ngã, què chân. Các học thuyết củaMontesquieu và Rousseau thì ngay cả các nhà Nho nước ta cũng chưa biết đến. Ðem những học thuyết dân chủ ra cổđộng, người ta không hiểu đầu đuôi gì thì sẽ không được mấy người tán thành!
Cụ Phan Hà Tĩnh có lýdo riêng để phản đối cụ Phan Quảng Nam: Ông đang phò tá Cường Ðể, hy vọng sẽ lập lên làm vua sau này, khiđuổi được người Pháp. Lập một người hoàng tộc làm minh chủ thì dễ vận động dân chúng hơn.Ngoài ra, muốncầu viện Nhật Bản thì chọn thể chế quân chủ lập hiến giống như họ.
Lá thư của cụ Sào Nam viếtnăm 1907. Bốn năm sau, cách mạng bùng lên ở Trung Hoa, lật đổ ông vua, thiết lập “dân quốc.” Rồi cụ Sào Namkhông được phép ở lại Nhật Bản nữa. Và tư tưởng cụ cũng biến đổi, năm 1912 lập Việt Nam Quang Phục hội,chuyển sang tư tưởng tự do dân chủ.
Khi can ngăn Phan Tây Hồ đừng vận động dân chủ, Phan Sào Nam chỉ muốnxin hoãn lại công việc đó thôi chứ không phải muốn bác bỏ hoàn toàn. Cụ viết: “Rồi đây, mươi, mười lămnăm nữa, huynh ông sẽ đưa cái thuyết đó ra, thì người đầu tiên đứng cạnh huynh ông mà vỗ tay hoan hô sẽ làtôi vậy. Huynh ông nghĩ xem, mặt tôi có thể đi làm tôi đòi, làm chó săn đâu!”Nếu lấy con số 15 năm màPhan Bội Châu đưa ra mà tính từ năm 1907, thì cụ tin rằng tới năm 1922 người Việt Nam đã đuổi được ngườiPháp, giành được độc lập rồi. Mà chắc cụ cũng tin rằng đến năm đó dân Việt Nam sẽ đủ trưởng thành đểhọc hỏi các lý thuyết về thể chế dân chủ. Phan Bội Châu là người tánh sôi nổi, quả quyết, nóng nẩy, rất bi quan khi nói đến tinh thần nô lệ còn trong đầu đồng bào nhưng lại rất lạc quan về triển vọng sẽ thay đổiđược tinh thần hủ lậu bằng tư tưởng tự do dân chủ. Năm 1907 cụ đã tin rằng trong 10 đến 15 năm dân Việt Namcó đủ khả năng hấp thụ các học thuyết dân chủ.Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21. Nhưng ở Việt Nam cónhiều người bị bắt giam, chỉ vì muốn truyền bá các tư tưởng tự do dân chủ. Có người chỉ dịch một tàiliệu “Dân Chủ là gì?” mà cũng bị chính quyền cộng sản kết tội. Ông Hà Sĩ Phu mới bị công an Ðà Lạt cắtđiện thoại, để cắt đứt liên lạc qua internet. Họ nêu ra “sự cố kỹ thuật” nhưng ai cũng biết Hà Sĩ Phu bị”bịt tai, bịt miệng” chỉ vì ông cổ động cho tự do dân chủ; không những thế, nhóm ông còn phổ biến tưtưởng Dân Chủ Xã Hội nữa.
Nghĩa là gần một trăm năm sau khi Phan Bội Châu tiên đoán dân Việt Nam có đủkhả năng học tập về tinh thần dân chủ và thể chế tự do thì Ðảng Cộng Sản vẫn chưa cho phép các nhà tríthức Việt Nam được tự do tìm hiểu và không được tự do phổ biến cho đồng bào hiểu chế độ tự do dân chủlà thế nào!Cứ như vậy, thì biết đến bao giờ người Việt Nam mới thấm nhuần tinh thần tự do dânchủ?
Bởi vì tự do dân chủ không phải chỉ là những tư tưởng, những học thuyết để học thuộc rồi đemra bàn cãi, thảo luận với nhau trước khi dùng, như các lý thuyết về kinh tế hay lý thuyết vật lý học. Dân Chủlà một nếp sống. Một quốc gia chỉ đáng gọi là có lối sống tự do dân chủ khi nào người dân đã “thấmnhuần” tinh thần đó. Người dân thấm rồi, sẽ thể hiện tự do dân chủ một cách tự nhiên, trong nếp sống,nếp suy nghĩ, trong cách ăn ở, cách đối xử của mình với mọi người, với từng cá nhân một hay là với cả tậpthể xã hội chung quanh.Muốn tập nếp sống đó, cần thời gian rất lâu dài. Thời Phan Bội Châu theo chủnghĩa Tam Dân chắc cụ cũng theo con tính ước đoán của Tôn Trung Sơn, cho là thời gian “giáo dục dân chủ” choquốc dân phải mất một thế hệ. Nhưng trong một thế hệ, chắc cũng chỉ tập cho dân quen sử dụng các thủ tụcdân chủ thôi. Như người dân tập sống cho quen để dám tự do bỏ phiếu chọn người đại biểu, dám ra ứng cử, dám nói, dám làm theo ước vọng của mình, dám phê phán người cầm quyền, vân vân. Còn tập cho người dân một nướccách suy nghĩ tự nhiên theo tinh thần dân chủ, tự do, ngay trong đời sống hàng ngày, thì có thể cần thời gian lâuhơn nữa.
Thí dụ như thói quen sợ hãi trước những người nắm quyền hành, đó là tinh thần nô lệ đã bámrễ trong tâm lý người Việt cũng như người Trung Hoa trong bao nhiêu thế kỷ trước. Trong Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư(viết năm 1903), Phan Bội Châu mô tả những người “bình dân, bách tính” nước ta thấy bọn lại thuộc (côngchức) thì sợ như hùm sói; “đến chốn nha môn khiếp sợ hơn cả con rệp ở khe giường!” Trong cùng thời gianđó, Lương Khải Siêu ở bên Tàu cũng than, “Quốc dân chúng ta quá quen với chính thể chuyên chế nô lệ, coi quốcgia là tài sản riêng của vua chúa, không phải của hạng chúng mình.”Một thói quen của người dân nhữngnước tự do dân chủ là họ coi cả guồng máy nhà nước là dụng cụ chung để phục vụ cho mình. Dân đến côngsở làm giấy tờ có quyền yêu cầu nhân viên nhà nước làm cho mình, chỉ dẫn cho mình cách làm cho đúng luật lệ.Ngược lại, những công chức trong một nước tự do dân chủ thì tự nhiễm thói quen coi mình có bổn phận phục vụcho người dân khi họ đến công sở; có bổn phận giúp dân làm đúng thủ tục, luật lệ. Không bao giờ một nhânviên nhà nước nhìn người dân đến sở mình như là họ đến xin ân huệ, nhờ vả mình. Guồng máy nhà nước làmột nơi làm dịch vụ hành chánh giúp dân làm đúng luật lệ, công chức được trả lương để làm dịch vụđó; chứ không được làm khó dễ dân khi họ không biết rõ luật lệ.
Người dân sống trong chế độ chuyênchế thì có những thói quen khác hẳn. Họ đến công sở mà rụt rè, lo sợ. Sợ, vì các công chức là những”chuyên gia” về thủ tục hành chánh, độc quyền sử dụng các thủ tục đó, giống như các pháp sư Ai Cập thờiThượng cổ độc quyền biết các bùa, chú, đóng vai trung gian giữa thế giới loài người với các thần thánh ởtrên cao! Người dân trong chế độ chuyên chế muốn biết các bùa phép hành chánh thì phải xin các quan lại dậybảo, giống như xin ân huệ các thần linh. Sợ sệt như con rệp nép trong khe giường, Phan Bội Châu ví khôngngoa!Xin kể một câu chuyện có thật. Một người Việt ở nước ngoài về thăm Hà Nội vào khoảng năm 1995,thời điện thoại di động chưa thịnh hành. Cô ở nhà người cháu, gia đình thuộc loại có chức vị, trong nhà cómáy điện thoại. Cô muốn gọi ra ngoại quốc, nên quay số nhà Bưu Ðiện, đổi mấy số rồi cũng có người trảlời. Cô xin cho biết số của bộ phận phụ trách điện thoại ra nước ngoài, nhờ một người tìm được nhân viênphụ trách có thể hỏi về cước phí. Gặp được nhân viên đó rồi mới hỏi giờ nào được hưởng giá rẻnhất, vân vân. Sau cuộc điện đàm kéo dài, mấy người cháu trầm trồ nói: “Cô hách quá!”Bà cô ngạcnhiên: “Hách cái gì?” “Cô nói chuyện với mấy nhân viên Bưu Ðiện, bắt họ phải đi tìm người có thể trảlời cô, thế mà họ cũng phải chiều! Rồi giọng cô nói cũng thản nhiên y như cô nói với chúng cháu vậy!” Bà côlại ngạc nhiên! Bà đã thưa, hỏi rất lễ độ, lúc nào cũng nói “xin làm ơn, xin cảm ơn,” vân vân. Cái gì đãkhiến cho mấy người cháu, tuổi từ 40 đến 50, nghe mà nghĩ rằng bà cô “hách?” Tất cả chỉ vì bà cô đã quencoi nhân viên công sở cũng là người cung cấp dịch vụ cho mình, mình không biết thì có quyền hỏi, họ tất nhiênsẽ lễ phép trả lời! Bà không có thói quen nhìn nhân viên nhà nước như các đấng bề trên nắm quyền ban phátân huệ khi trả lời câu hỏi của dân chúng.
So sanh thói quen của những người dân sống trong chế độ khácnhau, dân chủ khác với độc tài, chúng ta phải tự hỏi, sau khi thể chế thay đổi thực rồi, cần phải mất baonhiêu năm thì những người sống trong một nước độc tài chuyên chế mới tập được thói quen suy nghĩ, tậpđược những hành vi của người dân sống trong xã hội tự do dân chủ?
Nếu người dân một nước vẫn sợcông chức như hùm, như sói; đến công sở thì nhút nhát như con rệp trong khe giường, thì dù có ban hành một bảnhiến pháp “dân chủ tuyệt vời” chăng nữa, làm sao quốc gia đó gọi là sống dân chủ được?Một cách tập thói quen sống tự do dân chủ, là tập sinh hoạt tập thể. Vào những năm 1964 đến 1968 ở miền Nam Việt Nam cónhững phong trào thanh niên rất sống động. Phong trào sinh hoạt học đường đã tạo cơ hội cho các học sinh tậpsống tập thể. Các hội đoàn thanh niên được tự do thành lập đã phát triển rất nhanh, trong đó phần lớn nhắmmục đích phục vụ xã hội, sinh hoạt văn nghệ, tôn giáo, vân vân. Nhưng chính khi tập họp lại để hoạt độngvới nhau, các thanh niên, học sinh thời đó đã tập sống các quy tắc dân chủ ngay trong tập hợp của mình. Ðó lànhững hạt giống gieo rắc tinh thần tự do dân chủ, nếu tiếp tục trong một thế hệ sẽ đào tạo được một xãhội công dân sống động. Chính xã hội công dân là nền tảng của chế độ dân chủ. Bởi vì chỉ khi nào ngườicông dân trong nước tự mình tập quản trị những tổ chức, tập thể của mình, bên ngoài lãnh vực do guồng máynhà nước lo, thì lúc đó dân mới tập sống theo tinh thần dân chủ. Chỉ khi nào xã hội công dân phát triển thìdần dần cả xã hội mới bắt đầu thấm nhuần tinh thần dân chủ tự do!
Phan Bội Châu tin rằng năm 1922 dânViệt Nam đủ trưởng thành để bắt đầu học nếp sống tự do dân chủ. Nếu bây giờ dân tộc Việt Nam mới bắtđầu, thì trong một vài thế hệ, nếp sống đó mới hy vọng thành hình. Muốn người dân tập nếp sống, nếp suynghĩ tự do dân chủ thì phải phát triển xã hội công dân. Muốn vậy, phải trả lại ngay cho người dân các quyềnnhư hội họp tự do, phát biểu tự do. Ðể chậm ngày nào là mang tội với tổ tiên ngày đó.
|
|
|