Tại sao không sợ Trung Quốc?
Một quốc gia tiến quân vào lãnh thổ hay hải phận của nước khác mà ăn cướp, hoặc bắt cóc dân chúng người ta đem về tức là muốn khiêu khích, hoặc cố tình hạ nhục nước láng giềng. Việt Nam hiện đang bị Trung Quốc khiêu khích, có thể nói là đang bị gây hấn. Từ mấy năm nay ngư dân Việt Nam đi đánh cá trong hải phận nước mình đã bị Hải Quân Trung Quốc bắt cóc, cướp của, hành hạ, họ phải nộp tiền chuộc mới được thả về. Ðây không phải là những hành động lẻ tẻ mà được sử dụng đều đặn một cách có hệ thống, có chính sách. Người Việt Nam tiếp tục tỏ ý hòa hoãn, nhún nhường là chịu nhục. Nhịn nhục thì không làm cho Trung Quốc thay đổi, trái lại, chỉ khiến họ hung hãn hơn mà thôi.
Ông Tiêu Viết Là, 49 tuổi, ngư dân tỉnh Quảng Ngãi đã bị Hải Quân Trung Quốc bắt cóc 4 lần kể từ năm 2007 đến nay. Lần nào họ cũng cướp đoạt dụng cụ đánh cá, đánh đập, sau cùng đòi tiền chuộc mới thả về. Lần sau cùng ông Ngà bị bắt ngày 21 tháng 3, năm 2010: “Mười hai người đang ngủ, nó tới, nó lôi mình dậy, nó thu hết đồ đạc rồi nó dắt về Phú Lâm. Nó trói tay bịt mắt lại, rồi dắt về Phú Lâm,” ông Là nói với đài Á Châu Tự Do.
Ngày 29 tháng 4 ông Tiêu Viết Là được trả tự do cùng với 22 ngư dân khác. Trong thời gian bị giam giữ họ bị bỏ đói, bữa ăn chỉ có muối và đu đủ sống, cơm đủ tạm cầm hơi. Riêng ông trước khi được thả còn bị quân Trung Quốc đem ra ngoài hành hạ, đánh, đá. Chúng chỉ cốt khủng bố tinh thần; vì cứ đánh mà không cho biết lý do. Ông Tiêu Viết Là phải nuôi gia đình, với vợ và bốn con, cho nên ông sẽ lại trở về với nghiệp đánh cá. Và ông nói sẽ tiếp tục ra xa bờ đánh cá, trong vùng biển xa thuộc chủ quyền của nước mình, vì ven bờ biển không đủ cá bắt. Chính quyền Việt Nam cũng vẫn nói đó là hải phận Việt Nam, vì quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Nhưng cả guồng máy nhà nước hầu như tê liệt không ngăn chặn được quân Trung Quốc lộng hành suốt mấy năm qua.
Theo thống kê của nhà nước, chỉ riêng năm 2009, quân Trung Quốc đã bắt giữ 33 chiếc tầu 17 tàu đánh cá và bắt cóc 433 ngư phủ Việt Nam, trong số đó khoảng 210 ngư dân thuộc đảo Lý sơn và huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 4 tháng 5 năm nay, ông Ðặng Tầm và ngư dân Quảng Ngãi đã bị lính Trung Cộng bắt cóc, mười ngày sau họ được thả về sau khi chịu nộp tiền phạt 200 triệu đồng Việt Nam, tiền chuyển qua một ngân hàng ngoại quốc ở Trung Quốc. Chiếc tàu của họ, chỉ còn vỏ tàu với máy tầu, còn mọi máy móc trang bị khác, cùng với hải sản, xăng dầu, lương thực dự trữ đã bị cướp sạch, chỉ chừa lại ít dầu để cho họ trở về.
Tuần này, dư luận trong nước đã được khuấy động sau khi Trung Cộng đơn phương ra lệnh cấm tất cả mọi người không được đánh cá trên Biển Ðông, trong vùng chung quanh Hoàng Sa và Trường Sa mà họ coi là “ao nhà” của họ. Lệnh đưa ra từ đầu tháng 4, Chủ Nhật 16 tháng 5 được thi hành, sau đó mới có một ít báo, đài ở miền Nam đưa ra những lời phản đối của người dân. Những năm trước đây Trung Cộng đã từng ban ra những lệnh tương tự, nhưng năm nay là lần đầu tiên dư luận dân Việt mới được đưa ra trên báo chí.
Về phía chính quyền, mới nghe tỉnh Quảng Ngãi lên tiếng khuyến khích ngư dân cứ tiếp tục đánh cá ngoài khơi, không cần tuân theo lệnh cấm của Trung Cộng. Họ còn hứa sẽ cho “bộ đội biên phòng” hỗ trợ các ngư phủ. Nói “hỗ trợ” chứ không nói “bảo vệ!” Ông Trương Ngọc Nhi, phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi nói với một mạng lưới trong nước: “Tỉnh Quảng Ngãi kêu gọi ngư dân đoàn kết thành lập tổ, đội tự quản tàu thuyền hỗ trợ lẫn nhau tiếp tục vươn ra khơi đánh bắt thủy sản.” “Vươn ra,” nói thì dễ, trẻ con cũng nói được.
Ðây là một thái độ vô trách nhiệm của Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Trước hết, lệnh cấm của Trung Cộng là một chính sách quốc gia của họ; Việt Nam phải trả lời trên bình diện quốc gia ngang hàng; không thể để cho chính quyền một tỉnh lên tiếng. Một tỉnh đó không thể đứng ra nói chuyện với quốc gia khác, cho nên chỉ biết tỏ thái độ bằng cách ra lệnh cho dân chúng của mình mà thôi. Nhưng nếu các ngư phủ Việt Nam cứ nghe theo lời khuyến khích trên mà khi họ ra khơi lại bị bộ đội Trung Quốc bắt giam, cướp bóc và đánh đập thì sao? Ngân hàng của nhà nước lại tiếp tục chuyển tiền của dân nộp cho bọn “cướp biển” đó hay sao?
Lời hứa “cho bộ đội biên phòng hỗ trợ” là một câu nói vô giá trị. Làm sao người dân Quảng Ngãi và toàn dân Việt Nam có thể tin vào lời hứa đó được? Vì bổn phận thường xuyên của “bộ đội biên phòng” một nước lúc nào cũng phải bảo vệ người dân nước mình, không phải đợi đến khi bị ngang nhiên khiêu khích mới lên tiếng hứa hẹn. Nhưng từ bao nhiêu năm nay, ngay trong năm 2010 và ngay đầu tháng này, các ngư dân Việt Nam bị bắt cóc, bị đánh đập, bị đòi tiền chuộc, có thấy “bộ đội biên phòng” nào cứu họ, giúp họ không? Những lúc đó “bộ đội biên phòng” đang ngủ ở đâu?
Nước Mã Lai Á nhỏ hơn Việt Nam, dân ít hơn Việt Nam, nhưng chính quyền nước họ có thái độ khác hẳn. Ðầu tháng 4 vừa qua, Trung Quốc đã điều hai tàu Ngư Chính đến tuần tra trong khu vực Trường Sa, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc gần 1,200 km. Khi tới phía Bắc đảo Borneo, chiếc tàu Trung Cộng đã bị tàu chiến Malaysia bám theo sát trong khoảng thời gian 17 tiếng đồng hồ, trong hai ngày 29 và 30 tháng 4. Có lúc tàu Malaysia theo sát chỉ cách tàu Trung Quốc khoảng 300 mét. Báo chí Trung Quốc nói các binh sĩ trên tàu Mã Lai đầu đội mũ sắt với tư thế sẵn sàng chiến đấu, 4 binh sĩ tiến vào sau các khẩu pháo để chờ bắn, có nòng pháo chĩa thẳng vào tàu Trung Cộng. Một phi cơ chiến đấu của Malaysia xuất hiện bay phía trên tàu Trung Quốc, bay lượn liên tục, hai lần trong một ngày. Cuối cùng chiếc tầu Trung Cộng phải rút lui.
Người Việt Nam có cần phải sợ hãi trước Trung Quốc hơn người Mã Lai hay không? Nhà cầm quyền cộng sản phải trả lời.
Malaysia chắc chắn không muốn gây chiến tranh, mà chắc Bắc Kinh cũng phải biết như vậy. Chính phủ Mã Lai cương quyết đuổi tầu Trung Cộng đi chỉ vì bất đắc dĩ, phải bảo vệ thể diện quốc gia và gìn giữ các quyền lợi kinh tế của dân.
Nhưng tại sao Malaysia không sợ Trung Quốc? Vì ai cũng biết rằng trong thế giới hiện nay một nước mới đang muốn ngoi lên hàng cường quốc như Trung Quốc không thể nào tấn công, xâm chiếm một nước nhỏ mà sống yên ổn được. Tất cả thế giới, nhất là các nước trong vùng Ðông Nam Á sẽ đứng về phía nước nhỏ bị bắt nạt mà chống lại Bắc Kinh; giống như các nước đã tẩy chay Nga khi Putin muốn lấn áp các chư hầu cũ ở Ðông Âu. Nếu Trung Quốc đánh một nước nhỏ láng giềng, cả thế giới sẽ tẩy chay ngoại giao, nhưng miếng đòn đáng sợ nhất sẽ là bao vây kinh tế. Trung Quốc không thể nào chịu đựng được sự trừng phạt đó. Nước Tầu hiện đang sống nhờ ngoại thương. Ðạo quân kinh tế của họ đang đi khắp Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh để chinh phục cảm tình. Họ sẽ bị cả thế giới nghi ngờ nếu gây chiến với một quốc gia khác.
Chính phủ Bắc Kinh không bao giờ muốn hy sinh bỏ đi tất cả những thành tựu kinh tế trong 30 năm qua nhờ biết hòa hiếu với các nước khác, chỉ để thỏa mãn một tham vọng lãnh hải trong một vùng còn nhiều tranh chấp. Mặt khác, Trung Quốc vẫn có thể được hưởng nhiều quyền lợi kinh tế trong vùng Biển Ðông dù phải nhượng bộ một phần nào về chủ quyền trên các đảo đang bị tranh chấp. Từ năm 1950 Bắc Kinh mới tham dự một cuộc chiến tranh ở bán đảo Hàn Quốc; mà đáng lẽ họ phải tấn công Ðài Loan từ 60 năm trước đây, nhưng không bao giờ hành động. Ðó là một con chó sủa rất to nhưng không cắn.
Cho nên không có lý do nào để Malaysia phải khiếp sợ Trung Quốc. Ðối với Việt Nam cũng vậy. Tất cả những luận điệu tỏ ý run sợ trước sức mạnh quân sự của nước Tầu chỉ nói ra để che giấu thái độ khiếp nhược của một nhóm người cầm quyền mà thôi. Lịch sử cho ta thêm nhiều lý do để người Việt Nam không cần sợ Trung Quốc hơn người Mã Lai.
Chính quyền Malaysia chỉ chống Trung Cộng trong thời gian Bắc Kinh khuyến khích và yểm trợ đám cộng quân nổi loạn trong xứ họ thời 1950, dẹp yên cộng sản thì thôi. Người Việt Nam thì có quá khứ khác hẳn. Dân ta đã có nhiều kinh nghiệm chiến tranh với Trung Quốc; mà chính quyền Trung Hoa đã nhận được nhiều bài học đáng giá khi gây hấn và xâm chiếm Việt Nam trong 2 ngàn năm qua. Cho nên người Việt Nam lại càng không cần khiếp sợ trước thế lực quân sự của Trung Quốc. Ngày xưa các đạo quân của Toa Ðô, của Liễu Thăng cũng mạnh hơn quân Việt Nam. Mà trong thời gian đó toàn thể lực lượng quân sự, tài nguyên kinh tế của nước Trung Hoa thì vẫn mạnh gấp hàng ngàn lần sức lực của nước ta. Nhưng tổ tiên chúng ta không khiếp sợ. Trung Cộng chỉ đem quân đánh Việt Nam gần đây, năm 1979 khi chính quyền cộng sản để cho nước ta bị cả thế giới tẩy chay vì chiếm đóng Cam Pu Chia. Ðặng Tiểu Bình dám “cho cộng sản Việt Nam một bài học vì vô ơn bạc nghĩa” khi hầu hết các cường quốc và các nước vùng Ðông Nam Á cũng muốn cho Cộng Sản Việt Nam một bài học!
Nói những điều trên đây không có nghĩa là chúng ta muốn có một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Không muốn chiến tranh, nhưng phải làm mọi cách bảo vệ quyền lợi của người dân nước mình, phải làm mọi cách giữ gìn danh dự, thể diện dân tộc. Trước hết, chính quyền Việt Nam không thể bỏ rơi dân chúng của mình cho “hải tặc nhà nước” Trung Cộng bắt bớ, cướp bóc mãi được. Phải bảo vệ người dân, chứng tỏ hải quân nước Việt Nam không sợ chết mà chỉ sợ nhục. Khi bày tỏ thái độ cứng rắn đó, phải kêu gọi các nước khác hỗ trợ, đặc biệt là trong vùng Ðông Nam Á.